Bình Phước là một tỉnh có nhiều thành phần dân tộc anh em cùng sinh sống, đa dạng văn hóa vùng miền, phong phú về danh thắng, di tích và có nhiều lễ hội đặc sắc. Vì vậy tại vùng đất này cũng có da dạng các lễ hội của từng dân tộc góp phần làm phong phú lễ hội nơi đây. Bình Phước có lễ hội gì? Trong bài viết này chúng tôi sẽ giới thiệu đến các bạn các lễ hội dân gian đặc sắc tại Bình Phước, nếu có dịp du lịch đến nơi đây thì bạn nên kham khảo để không bị bỏ lỡ nhé.
Lễ hội miếu Bà Rá – Bình Phước
Theo lời của nhân dân địa phương, năm 1943 miếu được xây dựng để tưởng nhớ các tù chính trị bị chôn sống ở gốc cây cầy hiện nay, miếu do những tù nhân chính trị ở nhà tù Bà Rá bí mật xây dựng và làm bài vị thờ tượng trưng có ghi 4 chữ Hán “Chúa xứ nương nương” nhằm che mắt giặc nên đặt tên là miếu Bà.
Năm 1956-1957 tỉnh Phước Long được thành lập, một số người dân đã tiến hành dời miếu lên sát đường lộ (cách nơi cũ 500 mét) để bà con tiện đi lại thờ cúng, và cũng từ lúc này Miếu Bà mới có 3 bức tượng thờ. Miếu Bà Rá là một công trình kiến trúc tín ngưỡng dân gian, nằm trong quần thể di tích lịch sử Bà Rá đã được Bộ Văn hoá-Thông tin công nhận mang ý nghĩa lịch sử quan trọng, nó không chỉ là nơi thờ cúng tín ngưỡng của nhân dân mà còn là một trong những chứng tích về sự xâm lược của thực dân Pháp trên vùng đất Phước Long.
Hàng năm vào ngày mùng 1,2,3,4/3 âm lịch, đông đảo khách thập phương trong và ngoài tỉnh hành hương về đây để “Vía Bà”.
Diễn biến lễ hội:
- Ngày mùng 1/3 AL Ban tổ chức tiến hành làm lễ thay y phục, tắm tượng đến 12 giờ đêm cùng ngày làm lễ rước Bà về.
- Ngày mùng 2, tối làm lễ tế Bà khoảng 1 giờ đồng hồ, sau đó để khách hành hương vào làm lễ dâng hương, lễ Bà và xin lộc.
- Ngày mùng 3 tiếp tục khách thập phương dâng lễ.
- Ngày mùng 4/3 AL Ban tổ chức làm lễ tạ Bà vào buổi trưa, kết thúc lễ hội.
Miếu Bà là một trong những di ích lịch sử minh chứng về sự xâm lược của thực dân Pháp, nằm trong các chứng tích khác như: Hàng Điệp, vườn cây lưu niệm Nguyễn Thị Định, Sân bay Phước Bình nơi đồng chí Nguyễn Thành Trung năm 1975 thực hiện phi vụ ném bom dinh Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và lái chiếc F5 đáp xuống sân bay Phước Bình vùng Cách mạng an toàn.
Với giá trị tiêu biểu, Lễ hội Miếu Bà Rá được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia theo Quyết định số 4600/QĐ-BVHTTDL ngày 20/12/2019.
Lễ hội mừng lúa mới của đồng bào X’tiêng – Bình Phước
Góp chung vào không khí lễ hội đón xuân mới, đồng bào S’tiêng cũng có một lễ hội truyền thống, đó là lễ hội mừng lúa mới.
Cứ sau mỗi vụ thu hoạch, việc đầu tiên của dân làng X’tiêng là phải tổ chức Lễ cúng cơm mới để tạ ơn các vị thần: thần trời, thần đất, thần mưa, thần lúa, tổ tiên, ông bà đã phù hộ cho gia đình một vụ mùa bội thu. Đồng thời cầu mong các thần, nhất là thần lúa vụ mùa năm tới phù hộ cho nhà nhà làm ăn no đủ, làm ít được nhiều, làm nhiều càng nhiều hơn, lúa chất đầy kho, gà, heo đầy vườn, bí, bầu đầy rẫy…
Lễ mừng lúa mới của đồng bào X’tiêng được tổ chức mỗi năm 1 lần nhưng theo thông lệ thì Lễ hội không nhất thiết phải cúng trâu, thường chỉ có heo, gà, cơm lam, rượu cần và những lễ vật khác tùy theo điều kiện của gia chủ, bon sóc.
Lễ vật được đồng bào chuẩn bị gồm: 1 đầu heo, 3 con gà luộc, 3 ché rượu cần, 30 can rượu nếp, 30 ống cơm lam, 3 tù canh thụt, 30 xiên thịt nướng, 3 đĩa nhíp xào, 3 hao xôi nếp, rơm vàng đầu vụ, rượu ủ lâu ngày, nêu dựng ngoài sân, nong, nia sàng lúa, trầu cau, tiết gà, gạo nếp giã ngày.
Khi cây nêu được dựng, các lễ vật được bày biện xong xuôi, chủ lễ (già làng) tiến về phía cây nêu đọc lời khấn thông báo và mời các thần và hồn lúa, tổ tiên, ông bà về đón mừng ăn lễ và cúng cơm mới.
Khi chủ lễ dứt lời cúng, cồng chiêng vang lên, dân làng nối nhau theo vòng tròn quanh sân lễ, múa theo nhịp cồng chiêng, già làng lấy tiết gà bôi lên cây nêu và uống rượu cần, đội cồng chiêng chung vui, dân làng cùng nhau ăn cơm lam, uống rượu, tiếng cồng chiêng réo rắt, nam thanh nữ tú hát múa, cuộc vui cứ thế tiếp diễn cho đến khi mệt nhoài.
Lễ mừng lúa mới là dịp để bà con đồng bào X’tiêng được nghỉ ngơi sau một vụ mùa làm việc vất vả, đồng thời đây còn là nơi để mọi người trao đổi kinh nghiệm sản xuất, thanh niên, nam nữ gặp gỡ, giao duyên, vui chơi, nhảy múa, ca hát…
Lễ hội cầu mưa – Bình Phước
Hàng năm vào cứ mùa khô, đầu mùa mưa người STiêng – Bù Lơ tổ chức làm lễ cầu mưa theo từng bon (Wăng). Lễ cầu mưa là lễ hội rất quan trọng, do đó công việc chuẩn bị phải chu đáo.
Do dân tộc S’tiêng Bù Lơ sống chủ yếu bằng nghề nông nên họ biết làm rẫy, làm ruộng nước và dùng trâu, bò kéo cày từ khá lâu. Chính vì vậy mỗi năm đến mùa khô, đầu mùa mưa người STiêng Bù Lơ lại tổ chức làm lễ cầu mưa theo từng bon (Wăng). Lễ cầu mưa là lễ hội rất quan trọng đối với họ.
Đến giờ làm lễ, cả làng tập trung đầy đủ, trâu buộc chặt vào cây nêu, mọi người đúng thành vòng tròn chứng kiến nghi lễ. Sau khi đông đủ cả làng, Già làng (Bu Kuông) tuyên bố lý do buổi lễ, 1 đến 3 người đàn ông ở độ tuổi trung niên cầm lao hoặc chà gạc để giết trâu, Già làng lấy máu bôi lên cột cây nêu, dùng gạo trắng và muối rải lên mình trâu. Sau đó ngồi bên ché rượu cần để cúng các vị thần lúa, thần mưa, thần rừng, cầu cho mưa thuận gió hoà để dân làng có một mùa vụ năm mới bội thu, cầu cho vạn vật sinh sôi nảy nở.
Xong nghi lễ, mọi người xẻ trâu lấy thịt nướng, uống rượu cần và tận mục sở thị những màn biểu diễn cồng chiêng, những điệu múa cùng các nghệ nhân và nam nữ miền sơn cước, cuộc vui tiếp tục cho đến khi màn đêm buông xuống, mọi người sẽ được già làng giáo huấn về luật tục và xướng sử thi cho đến sáng hôm sau.
Lễ hội cầu mưa được tổ chức với mục đích: trước là tri ân các vị thần như: Bra Aân – Bra Trốk (Thần trời), Bra ter (Thần đất), Bra va (Thần lúa) … và rất nhiều các vị thần khác đã cho những cơn mưa để gieo trồng ở các vụ mùa trước, sau là cầu xin các vị thần ban cho thần dân S’tiêng và muôn loài những cơn mưa đúng thời điểm – mùa vụ để con người có nước sinh hoạt, gieo trồng…
Lễ hội cầu mưa là một lễ hội tín ngưỡng phồn thực, cầu mong cho mưa thuận gió hoà, để vạn vật được sinh sôi nẩy nở.
Thông qua việc truyền dạy và phục hồi lễ hội cầu mưa, nhiều giá trị văn hoá khác cũng được phuc hồi, sống lại như: nghệ thuật đánh cồng chiêng, trống, sáo, kèn và các bài hát đối đáp, múa dân ca, nghệ thuật điêu khắc dân gian, trang trí dân gian (trang trí cây nêu, trang phục). Nghệ thuật ẩm thực cũng được tái hiện qua việc chế biến và uống rượu cần, nấu cơm lam, canh bồi… Nhằm truyền dạy cho thế hệ trẻ tự hào về truyền thống văn hoá của dân tộc mình. Từ đó có ý thức gìn giữ và phát huy những giá trị bản sắc văn hoá riêng.
Tuy nhiên trong khoảng 3 – 4 thập niên trở lại đây vì nhiều lý do khác nhau lễ hội này có nguy cơ mai một không được tái hiện. Chính vì vậy việc tổ chức truyền dạy và phục hồi lễ hội cầu mưa là việc làm thiết thực nhằm bảo tồn và phát huy những giá trị truyền thống văn hóa phi vật thể của dân tộc S’tiêng.
Tết mừng lúa mới của người M’Nông – Bình Phước
Trên địa bàn tỉnh Bình Phước có các nhóm M’Nông Đíp, M’Nông Biat và M’Nông Bu Dêh cư trú. Không như nhiều nhóm M’Nông ở các địa phương khác, người M’Nông ở Bình Phước không có lệ ăn tết cổ truyền cùng với người Kinh mà chỉ tổ chức lễ Tết mừng lúa mới hay còn gọi “Lễ Cơm mới” vào đầu vụ thu hoạch, sớm hay muộn là tùy vào mùa lúa chín (thường vào cuối tháng 7 hay đầu tháng 8). Việc ăn tết có nơi kéo dài cả tháng, lần lượt từ nhà nọ đến nhà kia.
Vì là một dịp lễ quan trọng, việc chuẩn bị được bắt đầu ngay từ ngày đầu tra hạt. Các gia đình thường chuẩn bị từ 2 đến 7 chóe rượu cần tùy điều kiện kinh tế của mỗi gia đình và nuôi gà hoặc heo chờ ngày lúa chín. Gần đến ngày thu hoạch lúa, những chóe rượu cần qúy nhất sẽ được xếp hàng dãy dọc giữa nhà. Những cây cần đã được làm thêm để tiếp nhiều khách đến thưởng thức chất men rượu thơm nồng của rượu cần M’Nông. Bộ chiêng với nhiều kích cỡ cũng được đem ra kỳ cọ và đánh thử để kiểm tra âm thanh. Nếu gặp vụ mùa bội thu, có đến hàng trăm gùi lúa thì người M’Nông còn làm thêm cả kèn Riết, chuẩn bị hội đâm trâu để hiến tạ thần linh và ăn mừng.
Trong quan niệm của người M’Nông, thần Lúa là linh hồn của mọi vật, là vị thần đáng tôn thờ nhất. Vào dịp tết mừng lúa mới, người M’Nông sẽ trang trí kho lúa bằng các loại cây hoa, được làm từ những que tre vót thành nhiều cành tượng trưng hình bông lúa, gọi là “Hừn du”. Theo cách nghĩ mộc mạc của người M’Nông, với cách trang trí này có thể hấp dẫn, lưu giữ hồn lúa ở trong kho.
Khi lúa chín, các nghi lễ cúng lúa sẽ rộn lên trong các gia đình. Từ lễ tuốt lúa đến cúng hồn lúa từ rẫy về kho sẽ được tổ chức nhộn nhịp. Nếu vụ lúa của chủ nhà nào chín rộ thì mọi người sẽ cùng đi tuốt hộ. Số thóc thu hoạch sẽ được chia làm ba: một phần để ăn, một phần để sắm đồ đạc, một phần dành cho trâu cùng những con vật đã có công với người làm ra hạt lúa.
Lễ Tết mừng lúa mới được tổ chức ngay tại rẫy. Thịt, rượu, cơm được bày ra để cúng Giàng. Khi lễ tế kết thúc, mỗi người ra về đều tuốt một nắm lúa đem bỏ vào trong bồ gọi là “rước thần Lúa về nhà”. Việc rước thần từ rẫy về nhà là để thần gìn giữ, phù hộ cho gia đình chứ không thể để thần “bơ vơ” ngoài rẫy hoang vắng được.
Sau khi hoàn tất các nghi thức, những người tham dự sẽ chúc chủ nhà những điều tốt lành (tựa những lời chúc Tết của người Kinh). Lúc này chủ nhà sẽ rót rượu mời, cám ơn từng người, rồi tất cả quây quần quanh đống lửa giữa sân uống rượu cần và ăn thịt nướng. Khi đã no say, chiêng, cồng bắt đầu nổi lên, cả tập thể múa, nhảy hát cho tới khuya, có khi tới sáng mới nghỉ…
Về Bình Phước đúng vào mùa lễ Tết mừng lúa mới của bà con M’Nông, du khách hãy dành cho gia chủ những lời cầu chúc tốt lành nhất. Chắc chắn bạn sẽ được mời quây quần quanh đống lửa ăn mừng thành quả công sức lao động của họ. Những điệu múa hòa nhịp cùng tiếng cồng, chiêng, được thăng hoa bởi men rượu cần M’Nông nồng say chếnh choáng sẽ là kỷ niệm khó quên về một lễ hội độc đáo và đầy màu sắc văn hóa này.
Lễ hội đâm trâu – Bình Phước
Lễ đâm trâu thể hiện sự huyền bí, tinh thần thượng võ, khát vọng về sức mạnh và sự thịnh vượng đã được biểu hiện rõ nét trong từng phần của lễ hội. Đặc biệt hơn nữa đối với người dân tộc S’tiêng (Bình Phước), con trâu là biểu tượng cho sự thịnh vượng và sức mạnh trong cộng đồng. Vì thế trâu thường được người đồng bào dân tộc sử dụng làm vật tế thần linh.
Đây là lễ hội cổ truyền, có từ lâu đời, diễn ra hàng năm vào thời điểm thu hoạch mùa màng xong (tháng 10-12 âm lịch). Cũng có khi đồng bào tổ chức lễ hội đâm trâu là để mừng chiến thắng, hoặc nhân dịp tết cổ truyền, thoát khỏi hoạn nạn. Lễ hội vừa mang đậm chất sử thi như các dân tộc ở phía Nam dãy Trường Sơn vừa mang dấu ấn riêng “tục quay đầu trâu” của đồng bào S’Tiêng.
Lễ đâm trâu được tổ chức mừng chiến thắng, khánh thành nhà rông, làm lễ cầu an, lễ phá điềm xấu, điểm gở cho cả buôn làng, cũng có khi chỉ có 1 gia đình đứng ra tổ chức để tạ ơn thần linh nhưng tham gia vào lễ hội là cộng đồng. Lễ hội đâm trâu mừng được mùa là một sinh hoạt văn hóa nổi bật nhất, mang tính tổng hợp cao, có nhiều loại hình nghệ thuật dân gian được huy động vào lễ hội.
Nghi thức đâm trâu hiến tế cho thần linh được tổ chức trước sân nhà rông họặc nơi hội họp của làng. Cây nêu dựng trước sân là biểu tượng chính của lễ hội, cây nêu làm bằng tre được trang chí những hoa văn truyền thống, nhựng hình tượng chim thú biểu trưng của đồng bào dân tộc, Một số thanh niên mang dây thừng bện bằng vỏ cây thật chắc lên rẫy tìm bắt con trâu mang về cột vào gốc cây nêu. Già làng chủ lễ cúng hồn lúa cùng Giàng, háy bài khóc trâu thật thống thiết…
Buỗi lễ diễn ra long trọng trong tiếng cồng chiêng sôi động, tiếng kèn, tiếng hò reo làm cho không khí vừa huyền bí vừa náo nức. Dân làng cữ ra một tràng trai khỏe mạnh để đâm trâu, người thanh niên đóng khố cởi trần, già làng trao cho anh 1 cây lao đầu bịt sắt nhọn, người này nhảy múa quanh con trâu trong tiếng reo hò phấn khích của dân làng, tiếng cồng chiêng thúc giục, hai thanh niên khác chặt vào khuỷu chân con trâu lấy máu bôi vào cây nêu và kèn Glet. Sau đó là lễ cúng cho hồn lúa, một sợi dây chỉ tượng trưng cho đường đi được buộc từ kho lúa đền đầu con trâu, già làng lấy máu trâu hòa vào ché rượu rồi đổ vào các bình nước sau đó lấy nước này tưới lên kho lúa để tắm mát cho hồn lúa.
Làm xong nghi lễ mọi người cùng hát múa, ăn mừng uống rượu cần. Xong lễ người ta làm thịt trâu chia cho dân làng mang vềm thể hiện sự đoàn kết của cộng đồng.
Lễ hội đâm trâu là dịp để người S’tiêng được giao lưu, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc mình, mong rằng trong những năm tiếp theo chính quyền tỉnh Bình Phước sẽ thường xuyên tổ chức những lễ hội như thế này, để văn hóa của người S’tiêng không bị mai một.
Lễ Tết Chol Chnăm Thmây – Bình Phước
Lễ Tết cổ truyền Chôl Chnăm Thmây có nghĩa là “Vào năm mới” (còn gọi là lễ chịu tuổi), là lễ Tết lớn nhất trong năm của người Khmer, diễn ra từ 13 đến 15 tháng 3 Âm lịch hàng năm, tại xã Lộc Khánh, Lộc Hưng (Lộc Ninh).
Hằng năm, cứ đến trung tuần tháng tư dương lịch, đồng bào Khmer ở Nam bộ tổ chức lễ Chôl Chnăm Thmây, còn gọi là Lễ vào năm mới, (tức là ngày Tết của người Khmer). Theo quan niệm của đồng bào Khmer thì đây là lúc giao mùa giữa mùa nắng và mùa mưa. Giai đoạn này, cây cỏ trở nên tươi tốt và thiên nhiên đầy sức sống. Chính sự đâm chồi nẩy lộc của cây cối mà người Khmer quan niệm là sự khởi đầu của một năm mới, gọi là Chôl Chnăm Thmây.
Sự tích Chôl Chnăm Thmây được lưu truyền như sau, ngày xưa có một cậu bé tên Thom Ma Bal, rất thông minh, biết đem sự hiểu biết của mình truyền bá cho mọi người. Dân chúng rất thán phục và rất thích nghe cậu thuyết giảng. Tài trí Thom Ma Bal ngày càng lan rộng đến tận thượng giới. Các vị thiên thần cũng xuống trần gian xin nghe Thom Ma Bal thuyết giảng. Do vậy, những buổi thuyết giảng của thần KaBưl Maha Brưm trên thượng giới ngày càng vắng vẻ.
Thần Kabưl Maha Brưm rất có uy thế trên thượng giới lấy làm tức giận. Thần đã cho gọi hết các vị thiên thần trở về, cấm không cho xuống trần gian nghe thuyết giảng. Đồng thời thần tìm cách hãm hại Thom Ma Bal. Thần đã đặt ra ba câu đố bắt Thom Ma Bal phải trả lời. Nếu không trả lời được thì Thom Ma Bal phải dâng mạng sống cho thần. Nhưng Thom Ma Bal đã trả lời được câu đố của Thần Kabưl Maha Brưm. Và theo lời hứa thần đã tự cắt đầu của mình.
Ngày nay, khi đến chùa của người Khmer bất kỳ, ta thường thấy đầu thần Ka Bbưl Maha Brưm (Thần Bốn Mặt) được thờ trong các tháp xây trong chùa. Nơi đặt đầu của thần là vị trí trung tâm, là bàn thờ chính trong các nghi lễ tôn giáo cũng như các nghi lễ truyền thống được tổ chức trong chùa.
Tết Chôl Chnăm Thmây được tiến hành theo phong tục của người Khmer diễn ra trong ba ngày theo những nghi lễ sau:
Ngày thứ nhất: Chọn ra một giờ tốt (7 giờ sáng hoặc 5 giờ chiều, hay 12 giờ đêm tùy theo từng năm), mọi người tắm gội, ăn mặc đẹp và mang theo lễ vật vào chùa làm lễ rước lịch “Maha Sangkran”. Lễ này được vị Acha hướng dẫn mọi người xếp hàng đi ba vòng quanh chính điện làm lễ, sau đó mọi người lễ Phật tụng kinh mừng năm mới. Đêm xuống, trai gái trong phum, sóc tụ tập về sân chùa, tham gia các sinh hoạt vui chơi giải trí, múa dù-kê, rô-băm, lâm-thôl…
Ngày thứ hai: Buổi sáng, Phật tử làm lễ dâng cơm cho các sư sãi. Theo tục lệ nhà chùa, vào ngày sóc, vọng, ngày Tết, lễ… các tín đồ đi chùa lạy Phật và dâng cơm mời các nhà sư, đáp lại các nhà sư sẽ làm lễ tạ ơn cho những người làm ra hạt thóc, cũng như đưa những vật thực đến những linh hồn thiếu đói và sau khi ăn, các sư sãi làm lễ chúc phúc cho Phật tử.
Buổi chiều, là lễ đắp núi cát, mọi người tìm cho mình mớ cát sạch đem đến chùa, theo chỉ dẫn của vị Acha, tất cả những người có mặt sẽ đắp thành ngọn núi nhỏ ở chín hướng. Núi cát là tượng trưng cho vũ trụ và núi thứ chín ở giữa là trung tâm của thế giới. Tiếp theo là phần lễ quy y cho núi, đến ngày hôm sau thì làm lễ xuất thể.
Tất cả các nghi lễ này đến ngày nay được gìn giữ gọi là Anisong Puôn Phnom khsach, nghĩa là “Phúc duyên đắp núi cát” – Đây là một tập tục lưu truyền theo sự tích về một người làm nghề săn bắn từ lúc trẻ đến già đã giết rất nhiều loài thú. Ông được một nhà sư hướng dẫn tích phước bằng cách đắp núi cát, về già ông luôn ám ảnh bởi những loài thú mà ông đã săn bắn, chúng lúc nào cũng đòi mạng ông, nhưng nhờ tích phước từ việc đắp núi cát nên ông tỉnh táo bảo các loài chim muông hãy đi đến hết những hạt cát mà ông đã đắp, sau đó hãy đòi nợ ông. Nhưng do ông đã đắp quá nhiều núi cát nên các loài thú không tài nào đi hết, nên bọn chúng kéo nhau đi và từ đó ông thợ săn già cố gắng tích đức cho đến một ngày ông về với cõi Phật.
Ngày Tết thứ ba là ngày lễ tắm Phật: Lễ này được diễn ra sau khi các tín đồ dâng cơm sáng và trưa cho các vị sư sãi. Lễ được tổ chức theo nghi lễ là dùng nước tinh khiết có ướp nước hoa cùng nhang đèn cúng Phật. Họ dùng những nhành hoa vẫy những giọt nước hoa lên tượng Phật, sau đó là tắm cho các nhà sư cao niên. Kế tiếp, các nhà sư đến những ngôi tháp dựng hài cốt, các nghĩa trang, làm lễ cầu siêu cho vong linh người đã khuất và cuối cùng là lễ tắm tượng Phật tại gia. Sau nghi lễ, các con cháu mời ông bà, cha mẹ đến để tạ lễ, xin tha thứ những lỗi lầm, thiếu sót trong năm cũ, để sang năm mới mọi người trong gia đình phấn đấu tốt hơn. Sau ba ngày lễ Tết, mọi sinh hoạt của cộng đồng người Khmer trở lại bình thường và sẵn sàng bước vào vụ mùa mới.
Trong ngày Tết Chôl Chnăm Thmây, người dân Khmer làm bánh tét và mang theo cùng các loại hoa quả đến chùa để cúng dường với mong ước được may mắn, hạnh phúc trong cuộc sống.
Cùng với Tết cổ truyền của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, Tết Chôl Chnăm Thmây của cộng đồng Khmer vẫn còn lưu giữ những phong tục lễ, Tết rất độc đáo. Với họ, tấm lòng kính Phật là một đức tin bất di bất dịch, bởi trong tư duy đơn giản của mọi người, đức Phật từ bi là trên hết.
Lễ hội chọi trâu Hớn Quản – Bình Phước
Hình thành và tồn tại từ hơn một thế kỷ, với những nét độc đáo, khác biệt và văn minh của một lễ hội từ lâu là món ăn tinh thần trong đời sống người dân, hội chọi trâu Hớn Quản được xem như một di sản phi vật thể của tỉnh Bình Phước.
Trong trí nhớ của các bậc cao niên cùng tài liệu ghi nhận vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, những người dân ở Tân Phước Khánh (Bình Dương ngày nay) đã nhìn ra lợi thế mà thiên nhiên ban tặng cho Tân Khai, với những cánh đồng rộng lớn, đất đai phì nhiêu đặc biệt thuận lợi cho canh tác và chăn thả gia súc. Rất nhanh chóng, những cư dân đầu tiên bắt tay vào công cuộc mưu sinh ở vùng đất mới bằng các hoạt động sản xuất trồng lúa và làm nương rãy.
Thực tế sản xuất đòi hỏi phải có nguồn lực để thực hiện các công đoạn mà sức người không thể và đó là lý do cho hoạt động chăn nuôi ra đời, nhất là nuôi trâu với số lượng mỗi gia đình thường có từ 7-10 con. Việc chăn thả trên các cánh đồng lớn đã dẫn tới xung đột tự nhiên giữa các đàn trâu. Từ tiền đề đó, các hộ có trâu nuôi thách nhau để phân định thắng thua giữa các trâu xung đột để tìm ra trâu thắng cuộc, đó cũng là cách để giải trí sau những ngày lao động cực nhọc vào thời kỳ đầu sơ khai của vùng đất mới.
Theo lẽ tự nhiên, hình thức giải trí mới được người dân trong vùng tham gia đông đảo hơn và phát triển thành một ngày hội cộng đồng. Sới chọi được chọn tại khu vực đập Ông, đập Bà Úm, thời điểm tổ chức khoảng tháng 3 hàng năm khi nông vụ đã xong với phần thưởng cho người thắng là một con gà của bên thua.
Song song với phát triển kinh tế, người dân Tân Khai cũng quan tâm đến hoạt động tôn giáo tín ngưỡng. Năm 1901, ngôi đình đầu tiên thờ Thành hoàng làng được dựng lên, tại các buổi cúng đình, phần hội với trò chơi chọi trâu đã được đưa vào với mong muốn tăng phần sinh động trong nghi lễ. Chọi trâu kết hợp với nghi lễ cúng đình Tân Khai được duy trì đến năm 1967 trước khi tạm ngưng do hoàn cảnh chiến tranh. Năm 1977, hòa bình lập lại và lễ hội này được phục hồi, duy trì cho đến nay.
Nói đến chọi trâu, mọi người thường nghĩ tới Đồ Sơn (Hải Phòng), Hải Lựu (Vĩnh Phúc), nhưng sự khác biệt, nét riêng độc đáo thì phải là Hớn Quản. Bởi trong cuộc sống hàng ngày, con trâu đã gắn liền với cuộc sống và tinh thần của người dân từ thủa sơ khai lập đất, là người bạn cũng là công cụ cho cuộc sống. Thế nên sau mỗi mùa lễ hội, cả trâu thắng và thua đều được tiếp tục nuôi, chăm sóc để phục vụ cho việc lao động chứ không giết như các lễ hội khác. Đây thực sự là điểm nhấn rất văn minh của Hớn Quản.
Thêm nữa, du khách không phải mua vé và chính quyền sở tại không dùng ngân sách để tổ chức dù vẫn đảm bảo quy mô với đầy đủ phần lễ và hội, an ninh an toàn cho lễ hội luôn đầy ắp người xem quanh sới chọi với những kháp đấu có chất lượng cao. Dễ hiểu khi trâu tham gia được người dân lựa chọn chính từ đàn trâu chăn thả đông đúc của gia đình.
Qua năm tháng, các ông chủ trâu bằng tâm huyết, niềm đam mê và tình yêu với “người bạn” của mình đã huấn luyện được các “đấu sĩ” thực thụ với những miếng đánh như hổ lao, cáng hầu, đánh dập… Bên cạnh đó, phần thưởng của giải không đặt nặng tính thương mại với mục đính cuối cùng là phục vụ nhu cầu giải trí, đời sống tinh thần của người dân. Đó chính là yếu tố để các tổ chức, cá nhân dễ tìm được tiếng nói chung với chính quyền địa phương trong nỗ lực xã hội hóa để bảo tồn, phát huy giá trị của lễ hội.
Hội chọi trâu Hớn Quản với tính nhân văn cùng ý nghĩa văn hóa, tinh thần giờ được xác định như là một sản phẩm du lịch trong chuỗi giá trị của tỉnh Bình Phước, một nét đẹp cần được gìn giữ, nhân rộng trong đời sống văn hóa của người dân…
Bình Phước mảnh đất anh hùng, giàu truyền thống cách mạng, giàu bản sắc văn hóa vùng miền, con người Bình Phước hiền hòa mến khách trở thành điểm đến lý tưởng của nhiều du khách trong và ngoài nước đến khám phá, tìm hiểu và hòa cùng các lễ hội đặc sắc nơi đây. Bình Phước có lễ hội gì? hy vọng những thông tin trên sẽ giúp ích cho các bạn. Chúc các bạn có một chuyến trải nghiệm chuyến du lịch Bình Phước thật vui vẻ và ý nghĩa!